Người Thái có một
nền văn hóa đặc sắc, đặc biệt, họ còn có chữ viết nên lưu giữ được nhiều di sản
văn hóa của cha ông. Hệ thống chữ viết cổ của người Thái từ xưa đã được ghi lại
trên giấy gió, giấy dướng với nội dung rất phong phú. Chữ viết cổ của người
Thái có tự dạng Sanscrit (Bộ chữ Phạn), vốn được vay mượn từ Ấn Độ và được sáng
tạo thành bộ chữ riêng. Tiếng Thái là ngôn ngữ đơn tiết, có thanh điệu. Về mặt
phân loại thân tộc ngôn ngữ, tiếng Thái thuộc ngữ hệ Tai – Kadai. Người Thái là
hậu duệ của người Tai cổ, chủ nhân của nền văn minh lúa nước đặc trưng của vùng
Đông Nam Á cổ.
Chữ Thái ở Việt
Nam là loại chữ cổ và hiện nay vẫn giữ gần như nguyên vẹn từ tổ tiên người Thái
để lại. Người Thái ở Việt Nam sống rải rác tại nhiều địa phương, nên chữ viết
cũng dùng trong phạm vi từng địa phương, chưa được thống nhất và chưa được cải
tiến. Riêng người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, từ thời bản mường dưới sự thống lĩnh
của Tạo Xuông, Tạo Ngần, khoảng thế kỷ XI, XII, khi đưa dân Thái (Thái đen) từ
Mường Ôm, Mường Ai nơi đầu "sông nước đỏ" (sông Hồng) vào chiếm Mường
Lò (Nghĩa Lộ) đã có “Một mường", "Mo mường” và mang theo sách sử…
Tiếng Thái giàu
thanh điệu, vùng phát triển cao nhất là 6 thanh thường và 2 thanh tắc (như tiếng
Thái đen Việt Nam). Hai thanh tắc phát âm rõ thanh sắc và thanh nặng (gần như
tiếng Việt). Trong số các thanh có thể phân thành hai nhóm cao và thấp hoặc có
thể gọi là nhẹ và nặng, từ đó, sáng tạo ra 2 tổ phụ âm cao và phụ âm thấp. Sáng
tạo lớn nhất trong bộ chữ của người Thái là tìm ra cách ghi, phân biệt rõ ràng
và có quy tắc các thanh trong ngôn ngữ của mình.
Theo các nhà
Thái học Việt Nam, do tiếng Thái bao gồm nhiều thổ ngữ, phương ngữ, nên theo
dòng lịch sử, người Thái có tới 8 bộ kí tự: 2 bộ của ngành Thái đen: 1 bộ được
dùng phổ biến nhất ở các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, 1 bộ dùng ở miền Tây
Thanh Hoá; 4 bộ thuộc ngành Thái trắng, tại các địa phương: Phong Thổ, Mường Tè
(Lai Châu); Mường Lay (Điện Biên); Phù Yên (Sơn La) và 1 bộ tại các địa phương:
Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu, Đà Bắc (Hoà Bình); 1 bộ chữ Thái Quỳ Châu (Nghệ An
– gọi là chữ Thái Lai Tay) và 1 bộ mang tên Lai Pao ở Tương Dương (Nghệ An).
Tuy nhiên, tại 7 tỉnh có người Thái đều công nhận họ chỉ có một bộ
chữ duy nhất, khác nhau ở một vài ký hiệu riêng của từng địa phương, ghi
theo âm của địa phương mình.
Chữ viết của
người Thái Việt Nam là di sản kế thừa từ thành tựu chung của cộng đồng ngữ hệ
Thái cùng với sự sáng tạo của họ, trong đó, đồng bào Thái ở Sơn La có đóng góp
không nhỏ. Người Thái đã sáng tạo ra cách đánh vần nên với họ, chữ này rất dễ học.
Chữ viết của người Thái viết liền, không có dấu chấm, dấu phẩy, không có chữ viết
hoa; hơn nữa, bộ ký tự chữ Thái ở mỗi địa phương ít nhiều có sự khác biệt. Bộ
chữ Thái đã thể hiện tương đối đầy đủ, toàn diện về hệ thống ngữ âm, từ vựng và
ngữ nghĩa của ngôn ngữ Thái. Tuy vậy, nó vẫn có một số hạn chế là không có dấu
thanh và chưa thống nhất cao giữa các vùng.
Tại Quyết định
số 03/2006/QĐ-BGDĐT ngày 24/01/2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban
hành chương trình khung dạy tiếng dân tộc thiếu số (có chữ viết) cho cán bộ,
công chức công tác ở vùng dân tộc miền núi. Hiện có khoảng trên 3.000 người đã
được cấp chứng chỉ biết chữ tiếng Thái.
Chữ Thái cổ
không có dấu thanh điệu, khi đọc phải căn cứ vào ngữ điệu mà đoán. Một phụ âm của
chữ Thái có hai ký hiệu: huyền (`), thanh ngã (~). Khi mượn từ Việt có thanh
(`) thì thành thanh cao (~). Khi mượn từ Việt có thanh ngã (~) thì biến thành
thanh (') hoặc thanh (.).
Hệ thống bộ chữ
cổ của người Thái gồm: chữ cái phụ âm có 24 cặp chia làm 2 tổ: thấp và cao; chữ
cái nguyên âm có 19 nguyên âm; dấu thanh điệu có 2 dấu thanh cho 2 tổ hợp, mỗi
tổ hợp kể cả không dấu thanh sẽ tạo thành 3 thanh điệu, tổng cộng là 6 thanh điệu;
hệ thống vần chữ Thái.
Chữ Thái cổ được
viết liền nhau, không có dấu chấm, dấu phẩy, không viết hoa. Phụ âm cuối của âm
tiết trước có thể làm phụ âm đầu của tiết sau; một phụ âm có thể kết hợp với ba
nguyên âm để cấu thành ba âm tiết và ngược lại một nguyên âm có thể kết hợp với
hai phụ âm để cấu thành hai âm tiết; nét chữ và độ dài, ngắn của một số phụ âm
không rõ ràng, dễ nhầm lẫn; có nhiều từ cổ, có chữ âm từ (tượng hình) nên hiện
nay ít người đọc được chữ Thái cổ; có nhiều thành ngữ, tục ngữ được sử dụng rất
phổ biến trong giao tiếp.
Chữ Thái cổ hiện
nay do những người già, người am hiểu chữ Thái nắm giữ và bảo lưu trong các cuốn
sách chữ Thái cổ. Có thể phân loại sách chữ Thái cổ thành các loại sau: sách viết
về quan niệm trời đất, sinh vật và sự sống (thế giới quan của con người); truyện
kể (quám tô); sách hát (quám khắp); sách dạy người (quám bóc mạy, son kốn);
sách giáo dục trẻ em; sách dạy lời giao tiếp (quám cáo nai); sách cúng tế (quám
cáo tăm); sách cúng của thày mo (quám một); sách về tục lệ (hịt khỏng); sách
bói toán (quám dượng mó); sách bùa chài ma thuật (măn muốn, bít năng, băng phắn);
các loại sách hướng dẫn. Mỗi loại sách lại có nhiều chủ đề khác nhau.
Hệ thống sách
chữ Thái cổ ghi chép về nhiều lĩnh vực như: lịch sử, lễ nghi, phong tục, luật lệ,
đạo lý, địa lý, tín ngưỡng, nhân sinh quan thế giới và vũ trụ, văn học (sử thi,
trường ca, anh hùng ca...), là nguồn sử liệu vô giá nghiên cứu về mọi mặt đời sống,
văn hóa, xã hội… của người Thái. Chữ Thái cổ ghi lại những áng văn thơ của dân
tộc mình để truyền từ đời này sang đời khác, được thể hiện qua những lời hát
dân ca, những lời thơ trữ tình, lời dăn dạy con cháu, ôn truyền thống lịch sử
hào hùng của cha ông… Chữ Thái cổ là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực:
âm nhạc, văn hóa dân gian, dân tộc học, ngữ văn… Hình thành từ cội nguồn xa
xưa, chữ Thái có chức năng bảo tồn, phản ánh chiều sâu văn hóa dân tộc. Nghiên
cứu chữ Thái và những pho sách Thái cổ góp phần hiểu rõ lịch sử tộc người, văn
hóa, tin ngưỡng, tri thức dân gian của người Thái.
Với giá trị và
ý nghĩa đặc biệt trên, Chữ viết cổ của người Thái được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết
định số 829/QĐ - BVHTTDL ngày 10/3/2016.
Theo Wikipedia,
Người Thái tên tự gọi là Côn Tay/Tay/Tày/Thay tùy thuộc vào cách phát âm địa
phương. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: Thái Trắng,
Tay Đăm, Thái Đỏ và các nhóm khác… đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200
năm, là hậu duệ những người Thái đã di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung
Quốc bây giờ.
Ảnh: Trang phục truyền thống của phụ nữ Thái Việt Nam, nguồn: Internet
Dựa trên các
chứng cứ về di truyền, Jerold A. Edmondson cho rằng tổ tiên của các cư dân nói
ngôn ngữ Tai-Kadai di cư từ Ấn Độ tới Myanmar, rồi sau đó tới Vân Nam (Trung Quốc)
khoảng 20.000 - 30.000 năm trước. Từ đó họ đến đông bắc Thái Lan và sau đó di
cư dọc vùng duyên hải Hoa Nam lên phía bắc đến cửa sông Trường Giang, gần Thượng
Hải khoảng 8-10.000 năm trước. Vào thời kỳ vương quốc Nam Chiếu và Đại Lý tồn tại
từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII, cũng như sau đó, họ từ đó chiếm lĩnh Thái
Lan và Lào. Tuy nhiên, những chứng cứ trên của ông bị bác vì nó chưa đúng do
không có người Thái di cư ngược sang sông Trường Giang.
Theo David
Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history (Thái Lan: Lịch sử Tóm lược)",
người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân
ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt
ở phía bắc và phía đông, người Thái dần di cư về phía Nam và Tây Nam. Người
Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Trung
tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở
Đông Nam Á cùng 1 lúc bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Mianma và một số
vùng ở đông bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam. Vậy nên tổ tiến của những Thái đều ở
Vân Nam hết rồi di cư xuống Đông Nam Á và Ấn Độ.
Theo sách sử
Việt Nam, vào thời Nhà Lý, ở đạo Đà Giang, người Thái đã triều cống lần đầu
tiên vào năm 1067. Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ tạo, được phép cai quản một
số lãnh địa và trở thành giai cấp quý tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản
các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai
Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc; dòng họ
Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận; họ Hoàng ở châu Việt...
Hiện nay tại
Việt Nam, người Thái có số dân là trên 2 triệu người, cư trú tập trung tại các
tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ
An (số lượng người Thái tại 8 tỉnh này chiếm 97,6% tổng số người Thái ở Việt
Nam) và một số ở Tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk. Trong đó tại Sơn La có 482.485 người
(54,8 % dân số), Nghệ An có 269.491 người (9,4 % dân số), Thanh Hóa có 210.908
người (6,1 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người
(35,1 % dân số).
Lễ mừng lúa mới (Phiên âm tiếng Thái: Kín Khau mờ, Kín khau cắm) là một nét văn hóa truyền thống mang tính nhân văn sâu sắc được người Thái huyện Quế Phong coi trọng và gìn giữ từ đời này sang đời khác. Đây là dịp để người thân trong gia đình, làng xóm hội ngộ, chung vui, chia sẻ với nhau công việc làm ăn, xây dựng gia đình và thắt chặt thêm tình đoàn kết cộng đồng... Lễ mừng lúa mới đang được duy trì ở hầu hết các gia đình đồng báo Thái tại huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.
Đã thành thông
lệ, mỗi năm, cứ vào độ tháng 9 - 10 dương lịch, khi những cánh đồng lúa trải tấm
thảm vàng óng khắp bản làng cũng là lúc các gia đình ở làng trên, xóm dưới của
huyện các xã Thông Thụ, Đồng Văn, Tiền Phong... lại chộn rộn với công việc chuẩn
bị cho lễ cơm mới, tiếng Thái gọi là “Kín Khau mờ, Kín Khau cắm”.
(Ảnh minh họa)
Vì các nương lúa thường không chín đồng loạt, nên những nhà trồng lúa rẫy thường chọn ngày khác nhau để làm lễ mừng cơm mới. Họ thường chọn ngày đẹp, tránh vào ngày kiêng cữ của gia đình như ngày mất của ông bà, bố mẹ, người thân trong nhà. Thông thường, người Thái mỗi năm chỉ cúng mừng cơm mới một lần. Phong tục này xuất phát từ niềm tin của người Thái, họ cho rằng, để có một mùa vụ bội thu, thì sự phù hộ của đất trời, tổ tiên là rất quan trọng. Người Thái có câu: “Lực lan bỏ tàm kin còn, bỏ hón kin cái đăm páng” (Con cháu không dám ăn trước, không thể ăn qua mặt gia tiên) nên gia tiên phải là người ăn cơm mới trước, nếu không cây lúa sẽ không tốt và sẽ không được mùa. Vì vậy, nhằm cảm ơn tổ tiên và công ơn sinh thành của cha mẹ, mừng mùa màng thắng lợi và cầu cho con cháu khỏe mạnh, mưa thuận, gió hòa giúp năm sau lại có những mùa vụ tươi tốt nên mỗi gia đình dù có hoàn cảnh khác nhau vẫn thu xếp làm lễ cơm mới mời ông bà tổ tiên đến chung vui cùng con cháu. Trong lễ cơm mới, gia đình nào cũng mời 4 góc nhà, 3 góc bếp (tức là anh em, làng xóm, bạn bè thân thiết) cùng đến chung vui với mong muốn có nhiều khách thì vụ mùa sau sẽ có thêm nhiều niềm vui, phúc lộc. Những người khách mời nhất thiết không được mang tiền, quà mừng mà chỉ có những lời chúc tốt đẹp dành cho gia chủ.
Khi còn làm rẫy, cây lúa trên nương ngả màu vàng, gia chủ sẽ chọn ngày lành và người mẹ hoặc con dâu trưởng trong nhà sẽ đi cắt lúa mang về làm lễ cơm mới.
Trước khi lấy lúa trên nương về làm lễ cơm mới, bà con phải làm lễ cúng lúa mới trước để mời ông bà, tổ tiên đến ăn và báo cáo với tổ tiên là con cháu sẽ thu hoạch lúa về. Đồ lễ gồm có một con gà, một con vịt, một con lợn (không bắt buộc), 2 chai rượu trắng. Ngoài ra còn có xôi và đồ ăn, thức uống phục vụ con cháu đến giúp gia đình thu hoạch lúa. Tất cả đồ cúng được làm chín từ nhà, rồi bà con mang lên nương đặt tại một vị trí nào đó ở góc nương và mời ông mo đến cúng. Ông mo cúng gọi thổ công, thổ địa tại nương trồng lúa lên ăn. Ngày nay, do diện tích nương rẫy thu hẹp, bà con không còn duy trì lễ cúng lúa mới trên nương, chỉ thực hiện nghi lễ cúng cơm mới.
Sau khi cúng lúa mới xong, bà con chuẩn bị lễ cúng cơm mới. Nét đặc sắc của tục lệ này là lễ vật dùng để cúng chủ yếu là sản vật sẵn có được trồng từ nương rẫy. Ngoài ra, còn có cá suối nướng muối và các món ăn cổ truyền của người Thái tuy theo điều kiện của từng gia đình...
Lễ cúng cơm mới thường diễn ra vào lúc chiều tối, khi mọi người đã đi làm về đông đủ. Nét đẹp mang đậm tính nhân văn trong lễ mừng lúa mới của người Thái ở Quế Phong còn được thể hiện rõ nét qua bài khấn kể về quá trình sinh trời, sinh đất, con người vật lộn với thiên nhiên, khai phá đất đá làm nên đồng, nên ruộng để con cháu lao động sản xuất làm ra hạt lúa, hạt gạo nay dâng lên tổ tiên bên nội, bên ngoại về hưởng lộc. “Hôm nay ngày lành tháng tốt, gia chủ chúng con có một ít lễ dâng lên các vị thần linh cai quản đất này, cai quản nương rẫy. Kính dâng lên ông bà, tổ tiên đã phù hộ độ trì cho con cái bình yên, khỏe mạnh, trồng nương rẫy được thêm nhiều mùa vụ tốt tươi... Gia tiên được ăn cơm mới cùng với con cháu, kính mong gia tiên phù hộ con cháu sức khỏe để làm ra của cải bằng người, trồng lúa đầy đồng khắp ruộng, mỗi bụi được 1 bó, mỗi bó được 1 gánh, trong nhà có lúa mọc mậm, ngoài nhà có cơm nguội...”. Lời khấn trong lễ cơm mới mỗi nơi có thể khác nhau về câu từ nhưng 2 chủ thể không thể thiếu là tổ tiên và thần linh.
Sau khi phần lễ thành kính được thực hiện xong, người Thái thường dùng từ “Đắng” để thử hạt nếp với dụng ý nói tránh, đánh lừa những con vật, như: Chim, chuột đồng để chúng không phá hoại mùa màng. Khi nếm thử, thầy mo thường mời những người tuổi mèo ăn trước rồi mới đến chủ nhà và người cao tuổi. Sau đó, gia chủ sẽ mời khách ở lại giao lưu, ăn mừng cơm mới “Mặc dù lễ mừng cơm mới chỉ diễn ra 1 ngày, 1 đêm và gói gọn trong sự quần tụ của một dòng họ, nhưng ngày đó là niềm vui trọn vẹn nhất của mọi nhà trong họ, trong bản sau một năm làm ăn vất vả để nghỉ ngơi, vui chơi, chế biến sản phẩm nông nghiệp và tỏ lòng thành kính với tổ tiên. Đó cũng là khoảnh khắc giao cảm của mùa cũ và mùa mới, giữa trời và đất, giữa cõi sống và cõi chết”.
Lễ cơm mới các thành viên quây quần bên nhau. Đây sẽ là dịp để ông bà, cha mẹ dạy bảo con cháu biết quý trọng sức lao động, đạo lý, lối sống đúng mực ở đời. Vì thế, dù công việc bận rộn đến đâu, con cháu vẫn cố gắng sắp xếp thời gian về sum vầy cùng gia đình trong ngày cơm mới. Đặc biệt, người Thái không làm giỗ người đã khuất vào ngày mất. Hằng năm, nhân ngày làm lễ mừng cơm mới, ngày làm vía cũng như các ngày lễ khác, gia chủ sẽ mời người đã khuất về chung vui cùng con cháu.